In bài này

Tư liệu -17- Hưỡng dẫn kiêng cử

 Lương y Tạ Minh.

             Kiêng cữ thực ra chỉ là tránh né những nguyên nhân gây bệnh do bên ngoài đưa tới như thức ăn uống, khí hậu thời tiết, sinh hoạt hằng ngày. Mỗi một ngày khi thức giấc, cơ thể chúng ta bắt đầu đón nhận những yếu tố mới tác động vào như nắng - mưa - gió - bão - bụi bặm - mùi hôi - khí thải……v.v.. Khi bắt đầu ăn sáng là ta đưa một số chất mới vào. Chua có, cay có, đắng - mặn - ngọt có; cái nào hạp cái nào không hạp với ta?
            Điều trị bệnh mà không kiêng cữ thì hiệu quả điều trị rất kém, nếu không muốn nói là sẽ không có kết quả. Chúng ta thấy hiện nay xu hướng của Tây y cũng đã bắt đầu chú ý đến việc khuyên bệnh nhân kiêng cữ trong khi trị bệnh. Trước đây vài mươi năm, hễ hỏi đến kiêng cữ là y như rằng bệnh nhân sẽ bị bác sĩ cự nự cho một hồi. Nào là phải ăn cho đủ dinh dưỡng, nào là đã bệnh mà còn cữ ăn thì làm sao khỏe mà trị bệnh được…vv..!!! Quả thật thì Đông y bắt bệnh nhân cữ ăn hơi nhiều. Có nơi thấy bảng dặn dò kiêng cữ ăn uống của bệnh nhân có đến vài chục món. Có lẽ việc này xảy ra là do bệnh nhân uống thuốc Đông y, luôn có sự tương tác qua lại giữa thuốc và thức ăn. Vì thực chất thuốc Đông y đều có nguồn gốc thực vật hay động vật, là một dạng thức ăn hơi đặc biệt vậy thôi.
            Nếu chỉ dùng huyệt để trị bệnh thì chúng ta không sợ những tương tác như đã nói mà chỉ cần kiêng cữ những tác nhân gây bệnh mà thôi. Đó là một trong những ưu điểm của phương pháp trị bệnh không dùng thuốc. Vừa an toàn vừa đơn giản.
            Trong quá trình hành nghề và nghiên cứu chọn lọc tôi nhận thấy chỉ cần kiêng cữ theo các nguyên tắc:
1)                  Điều kiện môi trường không thích hợp: nóng - lạnh, ẩm - khô, trong sạch hay bụi bặm.
2)                  Điều kiện làm việc: thay đổi công việc hay ít ra cũng cải thiện thói quen trong làm việc đối với các bệnh do nghề nghiệp gây ra.
3)                  Thức ăn, uống: nếu kiêng cữ như Đông y lâu nay tuân theo ta sẽ có một danh sách rất dài, thậm chí hầu như không còn gì để ăn ngoài mễ cốc (gạo, lúa mì…)!! Bệnh nhân sẽ dễ rơi vào tình trạng suy dinh dưỡng. Do đó tôi chỉ chú trọng vào những món trực tiếp gây bệnh một cách mạnh mẽ cho cơ thể mà thôi. Gồm các nhóm chính.
·                     Nhóm gây lạnh cho cơ thể trong những bệnh do lạnh: thức ăn uống ướp lạnh, các món có vị đắng mạnh như khổ qua, rau má, tim sen, rau ngổ, rau đắng…… Các món quá mát như cam, dừa, thanh long, rau đay, bồ ngót……
·                     Nhóm gây nóng ráo cho cơ thể: các món ăn chiên, các thức có vị cay nồng như tiêu, ớt, tỏi, gừng…… Các món cung cấp năng lượng nhiều như chocolate, cacao, các loại kẹo bánh có dùng đường……
·                     Nhóm gây co cân - cơ: các chất có vị chua đậm như chanh, cam, thơm (dứa)…… các chất làm lạnh cơ thể.
·                     Nhóm gây trì trệ: hầu hết các món có chất nhờn đều gây trì trệ ứ đọng cho cơ thể như đậu bắp, rau đay, mồng tơi, khoai mỡ…… và các chất làm hạ nhiệt.
·                     Nhóm gây viêm: hiện nay tôi chỉ phát hiện ra hai món gây viêm rất mạnh (trên cơ thể vốn bị viêm): thịt gà và các loại mắm như mắm tôm, mắm ruốc, mắm sặc, mắm thái… (nước mắm thì vô hại, có lẽ vì độ mặn cao và quá trình lên men đã hoàn chỉnh nên không có độc - hay ít độc??).
·                     Nhóm có chất hóa học phát sinh: tất cả các món trải qua quá trình lên men sinh học (khác với lên men công nghiệp như xì dầu, magie): như chao, tương, bánh mì, rượu, bia…… LƯU Ý: các loại này đôi khi đã nấu chín vẫn không phân hóa được các hóa chất trong nó nên vẫn gây bệnh cho cơ thể khi dùng.
Nói chung khi bệnh có liên quan tới gan (Can) và tụy (Tỳ) thì cần kiêng cữ khá nhiều, nghiêng về hướng chất gây viêm và chất có hóa chất lạ, vì gan và tụy là bộ máy chính trong xử lý hóa chất của cơ thể (Can chủ sơ tiết, mưu lự – Tỳ chủ hóa), dĩ nhiên ở tế bào cũng có những quy trình xử lý hóa chất nhỏ riêng. Với Gan ta còn cần kiêng cữ thêm thịt bò, cá biển độc như cá ngừ, cá chuồn, cá nhám, cá nục… còn các loại cá hiền thì dùng được như cá chim, cá thu, cá bạc má… Với Tụy ta còn cần kiêng cữ thêm các chất gây lạnh.
            Còn các loại bệnh chứng liên quan ta cứ theo bảng hướng dẫn nêu trên mà khuyên bệnh nhân kiêng cữ.
            Theo triệu chứng ta có:
·                     Chứng đau nhức: cữ nhóm gây lạnh, gây co cân cơ.
·                     Chứng viêm (sưng + nóng + đỏ + đau), chấn thương: cữ nhóm gây viêm và nhóm gây co cân cơ, nhóm gây lạnh (nếu bệnh thuộc hàn), nếu là bệnh thuộc nhiệt thì ngược lại cần cữ nhóm gây nóng.
·                     Chứng ứ trệ, sưng nề (không nóng đỏ): cữ nhóm gây trì trệ, nhóm gây co cân cơ, nhóm gây lạnh (vì lạnh cũng là một nguyên nhân gây trì trệ cho cơ thể).
·                     Chứng có nhiễm trùng hay viêm do nhiệt: viêm do nhiễm trùng hay do nhiệt đều gây ra triệu chứng đau nhức. Thật ra trong Đông y thì phân chia khá rõ: đau thì do nhiệt, nhức là do hàn, nhưng hầu hết bệnh nhân không thể phân biệt được hai triệu chứng này mà họ thường gộp chung hoặc nói lẫn lộn. Loại này cần cữ các món gây nóng ráo, nhóm gây viêm.
·                     Các chứng có tính dị ứng, các loại bệnh ngoài da: nhóm có hóa chất phát sinh.
Như vậy ta có một đường lối kiêng cữ khá linh động vì theo gốc bệnh chứ không theo tên bệnh. Đo đó dễ nhớ để dặn dò bệnh nhân.
TP. Hồ Chí Minh, 12 – 6 – 2002.
In bài này

Tư liệu -16- Làm sao để đạt tứ đắc

 Tạ Minh.

Mạc Tư Khoa, 1992.
 
            Dò tìm sinh huyệt rồi tác động vào sinh huyệt là việc chúng ta đã biết và đã từng làm. Nhưng dò tìm sinh huyệt ở đâu, tác động như thế nào, bao nhiêu lâu để có thể đạt được TỨ ĐẮC (đắc thời, đắc vị, đắc pháp, đắc độ)? Bởi khuôn mặt đã là khó dò, rồi lại còn bàn tay, bàn chân, lưng, bụng, đầu, vành tai!!! Làm sao mà dò cho nổi… phải không các bạn?
            Nay, tôi xin đóng góp một tâm đắc sau một thời gian dài nghiên cứu và thử nghiệm thấy rất tốt. Mong rằng những kinh nghiệm này sẽ giúp các bạn vững tâm và vững tay hơn trong việc sử dụng DC-ĐKLP.
            Nguyên, đầu năm 1992 tôi sang Matxcơva làm việc theo lời mời của họ và theo đề cử của thầy Châu. Lúc ấy đang là mùa đông, lại là xứ lạnh, hầu hết các trường hợp đều phải dùng ngải cứu để điều trị, hiệu quả tốt. Nhưng có một số trường hợp hơ mặt không có kết quả, thậm chí có lúc lại xấu hơn, mặc dù về chẩn đoán rõ ràng là thực hàn. Tôi rất ngạc nhiên. Trước đó, ở Việt Nam thỉnh thoảng cũng có gặp, nhưng rất ít khi và chưa tìm ra giải pháp tốt. Một phần do áp lực bịnh nhân quá đông không rảnh để nghiên cứu cho ra vấn đề. Mặt khác phương pháp chỉ mới bắt đầu triển khai ra toàn thân, lại không có giường nằm cho bịnh nhân. Cho nên việc áp dụng các hệ thống phản chiếu ngoài bộ mặt chưa được triệt để như hiện nay.
            Ở Matxcơva, đủ điều kiện, nên tôi quyết tâm nghiên cứu hiện tượng này. Tôi phát hiện ra nhiệt độ các vùng cơ thể của trên cùng một bịnh nhân không giống nhau. Từ nhận xét này, tôi chuyên tâm tìm những vùng có nhiệt độ bất hợp lý nhất trên cơ thể bịnh nhân làm nơi chẩn đoán và điều trị. Từ đó hiệu quả điều trị được nâng cao hẳn vì nhanh hơn và chính xác hơn trước. Ngoại trừ các trường hợp sốt cao làm rối loạn sinh lý huyệt như đã trình bày. Hoặc một số trường hợp lạnh toàn thân vì một cơn đau kịch phát.
            Thế là vấn nạn “Làm sao để đạt tứ đắc” đã được giải.
I/-        VẤN ĐỀ ĐẮC VỊ, ĐẮC THỜI?
            Hai yếu tố đầu tiên là ĐẮC THỜI, ĐẮC VỊ sẽ đến cùng lúc khi ta tìm được vùng chẩn trị có sinh huyệt nằm trong đó. Đó là nơi lạnh nhất hay nóng nhất trong cơ thể bịnh nhân trong khi các nơi khác có nhiệt độ bình thường. Thí dụ: Các nơi đều ấm riêng bàn chân lại lạnh thì bàn chân là nơi khám và trị bằng ngải cứu. Các nơi đều mát mà mặt lại nóng thì mặt là nơi dò và trị bệnh bằng que dò.
II/-       VẤN ĐỀ ĐẮC PHÁP?
            Ta cũng biết, hễ bịnh nhân nóng thì giải nhiệt, bịnh nhân lạnh thì làm cho ấm, hễ đau tay thì chữa tay nhưng nếu đau tay do thiếu máu cơ tim thì chữa bệnh cho tim chứ không phải chữa cho tay; nhức đầu thì chữa đầu nhưng nhức đầu do táo bón thì lại chữa vào đại tràng chứ không chữa cho đầu v.v… Đó chính là đắc pháp, chứ không phải chỉ chọn dụng cụ là đã đắc pháp. Dĩ nhiên khi đã định được “pháp” rồi thì việc chọn dụng cụ kỹ thuật thích hợp là việc phải làm để phát huy tối đa sự ĐẮC PHÁP.
III/-     VẤN ĐỀ ĐẮC ĐỘ?
            Bịnh có nặng có nhẹ, có đơn giản có phức tạp. Thể trạng bịnh nhân có khoẻ có yếu, có nhạy cảm có chậm đáp ứng. Mỗi trường hợp, mỗi thời điểm đều chẳng giống nhau. Các kỹ thuật với các mức độ đề ra như hơ nóng 3 lần, day lăn vài phút v.v… dù sao cũng chỉ gợi ý bình quân. Muốn đạt được yếu tố ĐẮC ĐỘ chúng ta phải chú ý thật kỹ các triệu chứng, diễn biến trên thực tế lâm sàng ngay trong lúc đang thao tác điều trị. Đồng thời vẫn tiếp tục khảo sát các diễn biến kế tiếp. Muốn vậy chúng ta cần ghi chép bịnh án đầy đủ. Từ đó chúng ta mới có thể suy ra và phán đoán mức độ tác động thích hợp cho mỗi lần điều trị. Nếu không rất dễ làm quá lố hoặc không đủ.
            Muốn đạt được cao hai yếu tố PHÁP và ĐỘ chúng ta không thể không nghiên cứu sinh lý bệnh lý Đông và Tây y để làm nền tảng trong phán đoán bệnh chứng. Riêng yếu tố ĐẮC ĐỘ thì cần kinh nghiệm riêng có được sau một thời gian thực hành nhiều, điều này khó truyền đạt.
            Tôi vừa trình bày xong phương cách để đạt TỨ ĐẮC. Tuy không có gì bí hiểm nhưng muốn làm được chúng ta cần rèn luyện như mọi vấn đề khác. Mong các bạn thành công.
In bài này

Tư liệu -15- Nguyên tắc điều trị

Lương y Tạ Minh.
 
            Việc gì cũng đều có một số nguyên tắc thể hiện thực hiện, dù không ít ngoại lệ. Muốn thành công, muốn ít gặp biến cố cần biết và tuân thủ các nguyên tắc mà cũng không rời ngoại lệ. Việc khám chữa bệnh cũng vậy. Cần theo một số nguyên tắc cần thiết. Nguyên tắc đầu tiên là nhận biết và xử lý các trường hợp cần đến các kỹ thuật cấp cứu của bệnh viện.
I/-        NHỮNG TRƯỜNG HỢP BỆNH CẤP CỨU
            Những trường hợp sau đây thuộc loại cấp cứu tại bệnh viện:
-                    Đau dữ dội tại một nơi nào đó trong cơ thể thuộc vùng ngực, bụng hay đầu, kèm sốt cao (trên 38°C).
-                    Huyết áp số trên bằng hay cao hơn 170 hoặc huyết áp số dưới bằng hay hơn 110. Trong trường hợp tăng huyết áp.
-                    Huyết áp số trên thấp hơn 90 hoặc huyết áp số dưới thấp hơn 50. Trong trường hợp tuột huyết áp.
Với những trường hợp này ta chỉ tạm thời can thiệp khi xa bệnh viện hay trên đường đưa bệnh nhân đến bệnh viện mà thôi.
II/-       NGUYÊN TẮC ĐIỀU TRỊ
1)                  Đối với bệnh mới phát hoặc bệnh có triệu chứng dữ dội, nếu không thuộc loại cấp cứu đã nêu trên thì ta nên điều trị vào triệu chứng trước rồi điều chỉnh tổng thể sau (cấp trị Tiêu).
2)                  Đối với bệnh mạn tính hay bệnh có triệu chứng tương đối nhẹ mà bệnh nhân chịu đựng được thì ta nên điều chỉnh tổng trạng trước rồi chữa triệu chứng sau (hoãn trị Bản).
3)                  Điều chỉnh tổng trạng thì theo các yếu tố chẩn đoán của tổng trạng. Điều trị triệu chứng cục bộ nơi có bệnh thì theo các yếu tố chẩn đoán của cục bộ.
Với các nguyên tắc sau:
-                    Hàn (lạnh) thì làm cho ấm: bằng các kỹ thuật hơ, dán cao, xức dầu. Nhiệt (nóng) thì làm cho mát: bằng các kỹ thuật áp lạnh, gõ mai hoa, day vaseline, lăn gai. Hai yếu tố này bao trùm các kỹ thuật tác động cho tất cả các cơ chế điều trị còn lại dưới đây.
-                    Dương hư thì bổ Dương bằng bộ Thăng có làm ấm bằng hơ hay dán cao hay xoa dầu. Âm hư thì bổ âm bằng bộ Bổ Âm huyết day bằng vaseline. Khí hư thì bổ khí bằng bộ Thăng nhưng không gây ấm huyệt. Huyết hư thì bổ huyết bằng bộ Bổ Âm huyết nhưng kỹ thuật thì tùy hư hàn hay hư nhiệt mà chọn kỹ thuật tương ứng.
-                    Viêm thì Tiêu viêm.
-                    Huyết ứ thì khử huyết ứ bằng bộ Tan máu bầm nay là bộ Tiêu viêm khử ứ.
-                    Có đàm thấp thủy thì Trừ đàm thấp thủy.
-                    Nhiễm trùng thì Tiêu viêm bằng day ấn vaseline, hoặc dùng phản chiếu hệ bạch huyết,phối hợp với kháng sinh.
-                    Xuất tiết thì cầm lại (thu liễm) bằng bộ Tan máu bầm (còn có tên là bộ Thu liễm), bộ Bổ trung hay bộ Thăng. Tuy nhiên ở đây cần chẩn đoán tìm nguyên nhân do âm hay dương hư gây xuất tiết. Đây là một vấn đề hơi khó, cần kinh nghiệm biện luận.
-                    Khô thì làm cho tươi nhuận bằng bộ Bổ Âm huyết.
-                    Hưng phấn thì ức chế lại bằng bộ Giáng.
-                    Trầm cảm thì làm hưng phấn lên bằng bộ Thăng.
………………………………….v..v.
III/-     KINH NGHIỆM LÂM SÀNG
            Các triệu chứng thuộc rối loạn cảm giác như đau, nhức, mỏi, tê, nặng nề, yếu… cần phải:
1)                  Phải giảm bằng hay hơn 30% ngay tại chỗ các triệu chứng thì mới đúng. Nếu kém là còn thiếu sót.
2)                  Ngay tại chỗ giảm mà hôm sau tăng lại như cũ là trúng ngọn mà chưa trúng gốc.
3)                  Qua hôm sau tuy có tăng lại nhưng ít hơn ngày hôm trước là trúng cả gốc lẫn ngọn. Cứ thế tiếp tục.
4)                  Đang điều trị hoặc điều trị lần đầu tiên đã có giảm nhưng sau đó vài giờ triệu chứng tăng lên hơn lúc chưa điều trị, thì có thể:
·                      Chẩn đoán và điều trị sai: triệu chứng kéo dài.
·                      Chẩn đoán đúng nhưng điều trị chưa đủ liều lượng: triệu chứng tăng rồi giảm dần.
·                      Bệnh nhân không giữ gìn kiêng cữ về sinh hoạt, ăn uống.
5)                  Triệu chứng đang giảm mà dừng lại không giảm thêm, đó là bệnh chuyển sang giai đoạn mới. Cần thay đổi phương thức điều trị bằng cách chẩn đoán lại và đề ra phương án điều trị mới cho phù hợp. Thường là tốt vì bệnh đã giảm nhẹ, nhưng không có nghĩa là đơn giản hơn và dễ trị hơn giai đoạn trước vì đến đây là vào gần hơn đến phần cốt lõi của bệnh.
IV/-     KẾT LUẬN
            Tuy đã khám kỹ rồi mới có kết luận chẩn đoán nhưng không phải lúc nào cũng có thể trúng 100% ngay trong lần khám đầu tiên với biện pháp lâm sàng (chính vì vậy mà Y học hiện đại phải cố công xây dựng các phương tiện khám cận lâm sàng để hạn chế sai lầm trong chẩn đoán bệnh). Ta chỉ chẩn đoán đúng khi bệnh đơn giản. Với những bệnh phức tạp thì có khi điều trị thử vài lần mới ra vấn đề. Mong các bạn không chủ quan tạo sai sót trong việc chẩn trị. Luôn luôn đặt lại vấn đề khi điều trị thấy không có kết quả như mong muốn.
TP. Hồ Chí Minh, 15 – 07 – 2002
In bài này

Tư liệu -14- Nguyên tắc chung chẩn trị chứng đau nhức

 Lương y Tạ Minh.

             Đau nhức là một triệu chứng rất thường gặp. Với Tây y, đây là một vấn đề khá lớn và phức tạp đến nỗi hiện nay người ta phải lập ra chuyên khoa đau nhức song song với các khoa khác đã có. Nói theo cách thông thường ta có nhiều nguyên nhân gây đau: sự nhiễm lạnh gây co cơ hoặc co mạch, khối u chèn ép, cục máu đông hay mãng xơ vữa mắc kẹt lại, sự thiếu máu cục bộ tại một cân cơ nào đó, một chấn thương. Tất cả những thứ đó đều có thể gây đau.
            Với DC-ĐKLP thì việc giải quyết các chứng đau nhức tương đối tốt. Chủ yếu cần phán đoán bệnh do hàn hay nhiệt, có nguyên nhân cơ năng hoặc biến đổi thực thể. Luôn luôn cần phản chiếu hay đồng ứng nơi bị đau, có khi cần phải dùng đến hệ kinh mạch của Thể châm.
-                    Do hàn hay nhiệt: thường đột ngột, thất thường, đau tăng khi gặp yếu tố thuận, giảm khi gặp yếu tố nghịch. Hiệu quả điều trị rất cao và triệt để. Thỉnh thoảng có những trường hợp quá nặng điều trị không hiệu quả thì nên chuyển bệnh, thường là phải dùng thuốc tây thật mạnh chích thẳng vào nơi đau mới êm!! Gần đây có cây Hoàn ngọc (cây con khỉ) có tính giảm đau khá mạnh, có thể dùng 5 – 7 lá tươi cũng hiệu quả. Điều trị: hàn thì làm ấm, nhiệt thì làm cho mát.
-                    Do viêm nhiễm: đau cố định, kèm sốt. Đau tăng dần theo thời gian. Bộ Tiêu viêm làm chủ lực.
-                    Do tắc mạch: cũng đột ngột nhưng triệu chứng hàn nhiệt không rõ ràng, có điểm đau trên cùng và đau dọc theo đường dưới hoặc ngoài trọng điểm này, có khi kèm theo tê dại yếu sức. Bộ Tiêu viêm khử ứ làm chủ lực.
-                    Do khối u: cố định, khởi đầu khá mơ hồ như chỉ ê ẩm, từ từ đau tăng dần theo thời gian, không sốt. Nhưng cũng có thể đột ngột khi gặp u ác tính. Bộ Tiêu viêm làm chủ, phản chiếu khối u, lọc thấp. Ta điều trị tốt những trường hợp u mềm. Các u thuộc loại xơ cứng thì hiệu quả không cao và có hạn chế. Muốn biết chính xác thuộc loại nào thì phải nhờ cận lâm sàng. Theo tôi trường hợp u xơ nên ưu tiên cho phẫu thuật nếu không có gì đặc biệt. Hiện nay ngành phẫu thuật đã có những tiến bộ vượt bậc cần tận dụng. LƯU Ý: Không phải chúng ta không trị được bệnh này nhưng kết quả hơi thất thường và đây là loại bệnh có nhiều bất trắc, lại khó chẩn đoán bằng lâm sàng. Vì vậy hướng dẫn bệnh nhân theo Tây y để chẩn đoán là điều nên làm. Vì một khối u có thể là lành tính mà cũng có thể là ung thư, chỉ có thể xác định bằng các biện pháp cận lâm sàng.
-                    Do thiếu máu cục bộ: triệu chứng y như do lạnh nhưng nhẹ nhàng, thường xuất hiện vào sáng sớm khi vừa thức giấc, giảm dần trong ngày. Tổng thể thường bị thiếu máu. Điều trị: dùng bộ Bổ Âm huyết và phản chiếu. Trường hợp này có khi do nghẽn mạch nhẹ ở vị trí trên nơi bị đau, cần cảnh giác.
-                    Do chấn thương: điều trị: Bộ Tiêu viêm khử ứ, Tiêu viêm, phản chiếu, lọc thấp.
Trong việc tìm phản chiếu nơi có bệnh, thông thường dùng hệ phản chiếu trên mặt. Chỉ khi trên mặt không có sinh huyệt hoặc có mà không hiệu quả ta mới nên tìm ở các hệ phản chiếu bàn tay, bàn chân, lưng, bụng. Nếu vẫn không như ý, ta vận dụng thuyết Đồng Ứng, Lân cận, Đối xứng…… để tìm sinh huyệt. Nguyên tắc là như thế, nhưng nếu các bạn muốn nhanh thì áp dụng bài viết “Làm sao để đạt tứ đắc” và “Chẩn đoán hàn nhiệt bằng huyệt DC” của tôi thì việc tìm sinh huyệt phản chiếu nơi có bệnh sẽ nhanh gọn hơn và kỹ thuật tác động sẽ tốt hơn./.
TP. Hồ Chí Minh, 1993
In bài này

Tư liệu -13- Chẩn đoán hàn nhiệt bằng huyệt Diện Chẩn

 Tạ Minh.

TP. Hồ Chí Minh, 21-12-1993.
 
            Bệnh nếu không thuộc hàn thì thuộc nhiệt hoặc hàn nhiệt lẫn lộn. Trung y đã có cách chẩn đoán hàn nhiệt. Còn DC thì sao? Đây là ưu tư của tôi từ khi học và làm DC. Thời gian đầu gần như tôi phải dựa hoàn toàn vào tứ chẩn của Trung y. Sau đó, qua lâm sàng dựa vào huyệt tính và sinh huyệt, tôi tìm cách xây dựng kỹ thuật chẩn đoán riêng cho DC. Trước, để thỏa mãn sự tìm tòi của mình; sau là để đáp ứng nhu cầu của học viên chưa biết Trung y. May mắn thay tôi đã làm được điều này, có thể chưa được hoàn chỉnh nhưng nó góp phần không nhỏ cho những ai chưa biết hay đã biết Đông y – vì trong lâm sàng có một số trường hợp nhờ nó mà sự định bịnh rõ ràng hơn. Xin thử xem và vui thú với phát hiện này.
            Trước hết, ta cần nhớ các chứng hàn nhiệt vừa có toàn thân vừa có cục bộ và sự tương quan giữa chúng không có quy luật. Có nghĩa là có khi toàn thân là hàn mà cục bộ lại nhiệt, có khi toàn thân nhiệt mà cục bộ lại hàn. Có khi toàn thân lẫn cục bộ đều hàn hay nhiệt. Vì thế, khi chẩn đoán hàn nhiệt ta luôn cần xem xét cả hai khía cạnh toàn thân và cục bộ để hạn chế sai sót.
I/-        CHẨN ĐOÁN HÀN NHIỆT TOÀN THÂN
            Hai dụng cụ chính được sử dụng ở đây là que dò và ngải cứu. Cần thuần thục về kỹ thuật, nếu không ta sẽ bị báo hiệu sai và kết quả chẩn đoán sẽ sai theo.
1)                  Dùng que dò:
-                    đau ở 26 là nhiệt ở biểu.
-                    đau ở 143 là nhiệt ở lý.
-                    đau ở 1 hoặc 43 là hàn nhẹ ở lý. 
-                    đau ở 19 là hàn nhẹ ở biểu.
2)                  Dùng ngải cứu: ngải cứu được dùng khi khám bằng que dò không có sinh huyệt:
-                    nóng ở 1 hoặc 43 là hàn nặng ở lý. Khi 43 nóng là mất khả năng tàng trữ Dương khí. Khi 1 nóng là mất khả năng khai phát Dương khí.
-                    nóng ở 19 là hàn nặng ở biểu.
-                    nóng ở 143 là tinh huyết suy, mất khả năng tàng trữ Âm huyết. Khó trị hơn các trường hợp khác.
-                    nóng ở 26 là mất khả năng hấp thu dương khí.
LƯU Ý: phải dò cả 4 huyệt xong rồi mới kết luận sau khi đã tổng hợp – xem ở phần “Kinh nghiệm lâm sàng”.
            Nếu với cả hai phương tiện mà không thấy sinh huyệt thì có thể kết luận toàn thân bịnh nhân bình hòa, không hàn không nhiệt. Chỉ còn cần khám hàn nhiệt cục bộ mà thôi.
II/-       CHẨN ĐOÁN HÀN NHIỆT CỤC BỘ
            Như đã đề cập, khi một cục bộ có vấn đề (cơ quan bị bịnh), ta vẫn cần khám toàn thân để tìm sự liên hệ nếu có giữa toàn thân và cục bộ. Nếu toàn thân không có gì, ta chỉ cần khám cục bộ để biết bịnh thuộc hàn hay nhiệt.
1)                  Dùng que dò: tìm sinh huyệt dựa theo đồ hình phản chiếu nơi bị bịnh - chủ yếu ở trên mặt. Nếu báo đau là bịnh nhiệt. Nếu là vùng phản chiếu như cả cánh tay, hay phóng chiếu xoang, ta dùng lăn đinh nhỏ lăn vào nơi này, nếu đau là bệnh nhiệt.
2)                  Dùng ngải cứu: khi bịnh chứng rõ ràng mà khám bằng que dò không thấy có huyệt đau là bịnh hàn. Dùng ngải cứu dò sẽ thấy nóng.
3)                  Khi huyệt không báo đau mà cũng không báo nóng là tìm chưa đúng, thay đổi hệ thống phản chiếu.
4)                  Khi huyệt báo nóng lẫn báo đau là hàn nhiệt lẫn lộn, hoặc hàn nhẹ. Cần bình tĩnh xem xét kỹ. 
Tuy vậy, theo kinh nghiệm, dò bịnh hàn nhiệt cục bộ bằng huyệt khá phức tạp vì huyệt chịu chi phối bởi nhiều quy luật - như đối xứng, giao thoa, phản hiện v.v.... cần có nhiều kinh nghiệm hỗ trợ mới ít sai lầm. Do đó, nên phối hợp với sờ tại chỗ để xét hàn nhiệt - xem bài “Làm sao để đạt tứ đắc”. Đồng thời nên hỏi triệu chứng tăng vào mùa nào trong năm, giờ nào trong ngày để tìm hiểu quy luật rồi suy ra./.
TP. Hồ Chí Minh, 1989