In bài này

Âm dương khí công -05- Thực hành Âm dương khí công

 LƯỢT THỞ -TỐC ĐỘ THỞ -THỜI GIAN TỤ KHÍ :

            Khi thực hành Âm Dương khí công, chúng ta nên biết rằng : Số lượt thở, tốc độ, thời gian tụ khí, và độ tập trung tư tưởng nếu khác nhau, sẽ cho những kết quả khác nhau. Một điều chắc chắn và hợp lý là: thở ít lượt sẽ cho kết quả khác với thở nhiều lượt , đối với 1 đường Âm và Dương cùng 1 lúc...

   Ví dụ: thở chừng 5 đường Dương sẽ cho ta ấm áp, trái lại thở chừng 10 hay 20 đường Dương một lúc mà không thở đường Âm kèm theo sẽ cho ta sự nóng nhiệt (lượng biến thì chất biến). Cũng vậy đối với đường Âm, chúng ta sẽ đi từ mát (lương) đến lạnh (hàn) do số lượt thở từ ít đến nhiều. Nếu ta thở cả 2 đường một lúc , kết quả cũng sẽ khác nhau tùy ở sự thở nhiều hay ít.

Đối với tốc độ thở (Dẫn Khí trên Mạch) hẳn là điều hợp lý khi ta thấy thở chậm dễ làm ta đổ mồ hôi hơn là thở nhanh (đúng hơn là tưởng  tượng nhanh)

 Về thời gian tụ khí tại Đan Điền, thì chắc không ai ngạc nhiên khi thấy càng nín thở lâu càng thấy mặt đỏ và càng ngộp thở khó chịu.  Và chắc chắn những hậu quả tai hại sẽ xảy ra nếu ta cố hết sức để phá kỷ lục nín hơi của ta.

Hẳn nhiên mọi sự phân tán tư tưởng đều không có lợi cho việc tập theo phương pháp Âm Dương Khí Công, và chắc chắn sẽ không đưa đến kết quả tốt được.

Thở đường Âm trước khác với thở đường Dương trước.  Như ta  Thở 5D/5A sẽ cho kết quả khác khi ta thở 5A/5D.   Sau độ 1 tuần áp dụng phương pháp ta sẽ đạt được một số  kết quả như : ăn ngon, ngủ ngon, dễ tiêu hóa, hết táo bón, siêng làm việc, bớt nóng tính (nếu có trước đó) và cảm thấy khoẻ khoắn, tươi tỉnh , dẻo dai hơn...

   Nếu tập không đúng thì sẽ :  Không thấy các kết quả trên, hơn nữa còn khó chịu, chóng mặt , mệt tim.  Nếu tập quá nhiều đường Dương sẽ có phản ứng khác lạ của cơ thể như nổi nhọt, nổi hạch, nhức đầu, nhức răng; hoặc tập quá nhiều đường Âm sẽ tiểu nhiều, buồn ngủ, yếu sức, làm biếng.

  Nếu tập thường xuyên và lâu dài lần lượt các bạn sẽ đạt được các tiêu chuẩn của sức khoẻ đã nêu ở bảng trên. Ngoài ra khi thở sẽ cảm thấy ấm vùng Đan Điền hoặc khí nóng chạy trên các Mạch và các vùng trên cơ thể , nhất là vùng eo , lưng , gáy...

TÍNH CHẤT- CÔNG DỤNG CỦA HAI  ĐƯỜNG ÂM DƯƠNG:

STT

ĐƯỜNG ÂM

ĐƯỜNG DƯƠNG

1

2

3

 

4

 

5

 

6

7

8

9

 

10

11

12

13

14

15

 

16

17

18

19

 

20

Làm giảm nhịp đập của tim

Làm chậm(động tác).

Làm yếu sức, dễ bị dị ứng, dễ dao động.

Giảm thân nhiệt, làm mát bên trong cơ thể.

 Làm mát tim, gan, phổi, bao tử, thận.

 

Làm dễ ngủ.

Làm mịn màng, tươi nhuận da thịt.

Làm bớt nóng tánh (trầm tĩnh)

Làm bớt sự cứng rắn, mạnh bạo, tự tin.

Làm bớt sưng đau, lở loét, nhức nhối.

Làm mau mệt mỏi

Sinh da thịt , hàn vá vết thương

Làm hạ huyết áp

Làm ức chế thần kinh.

Làm lưu thông huyết dịch, loãng máu, dễ xuất huyết.

Làm lớn thể tích (nở lớn ra, phình ra).

Làm sậm da.

Làm ức chế tình dục

Làm giảm khả năng tập trung tư tưởng, mau quên.

Làm giảm khả năng sáng tạo , tưởng tượng.

Làm tăng nhịp đập của tim.

Làm nhanh(động tác).

Làm mạnh sức, khó dị ứng, khó dao động.

Tăng thân nhiệt, làm ấm bên trong cơ thể.

 

Làm ấm tim, gan, phổi. bao tử, thận (thở nhiều sẽ nóng)

Làm khó ngủ.

Làm săn chắc da thịt (hồng hào).

Làm nóng tánh , hăng hái.

Làm gia tăng ý chí can đảm , tự tin , bạo dạn.

Làm tăng sưng đau, lở loét , đau nhức.

Làm bớt mỏi mệt, khoẻ khoắn.

Làm lở loét các vết thương.

Làm tăng huyết áp.

Làm hưng phấn thần kinh.

Làm bế huyết, làm đặc máu, mau đông máu.

Làm nhỏ thể tích (co lại).

Làm sáng da.

Làm hưng phấn tình dục.

Làm tăng khả năng tập trung tư tưởng , mau nhớ, nhớ dai.

Làm tăng khả năng sáng tạo , tưởng tượng.

     Đây chỉ là liệt kê phần nào những tính chất công dụng thường thấy, thường dùng. Qua thực tế công phu, chắc chắn chúng ta  sẽ tìm thấy thêm nhiều điều mới lạ. Khi đó sự đóng góp của người tập hẳn là điều hân hạnh cho chúng tôi.

     Chúng tôi vừa trình bày bảng tính chất và công dụng của việc thở 2 đường Âm Dương. Hẳn là còn nhiều điều cần phải được tiếp tục khám phá và trình bày. tuy nhiên đó là công việc có tính cách lâu dài. Vấn đề ở đây là ta phải làm sao để vận dụng bảng tính chất và công dụng trên một cách có lợi nhất. Ví dụ ở điểm 5 ta thấy tính chất của đường Âm là làm mát bao tử. Như thế đối với những bệnh đau bao tử vì nóng như lở bao tử hay đau thượng vị , ta đều có thể tìm thấy kết quả tốt khi thở đường Âm với một lượng lớn, chẳng hạn chừng vài chục đường một lúc cho mỗi buổi tập. Một ngày tập 2-3 lần và liên tục trong nhiều ngày. Về điều này , chính mỗi cá nhân phải tự tìm số lượt thở thích hợp với mức độ bệnh và tình trạng cơ thể mình, vì không ai có thể biết mình rõ hơn mình. Vì không thể liệt kê nhiều trường hợp áp dụng khác do hoàn cảnh khách quan. tuy nhiên chúng tôi tin tưởng với óc tưởng tượng phong phú và tài vận dụng khéo léo của các bạn, chắc chắn các bạn sẽ tìm thấy nhiều điều lợi ích, đôi khi ngạc nhiên và thú vị qua việc khai thác bảng trên.

    Cũng cần lưu ý là Bảng tính chất và công dụng của 2 đường Âm & Dương trên đây , vài điểm cần phải được hiểu với 1 nghĩa rộng.   Ví dụ : tim, gan, bao tử, thận cũng phải được hiểu là tâm, can, tỳ, phế, thận. Tóm lại mọi việc cần linh động và sáng tạo.

 TINH THẦN CỦA PHƯƠNG PHÁP CHỈ GỒM TRONG 5 CHỮ :

VỪA PHẢI - THOẢI MÁI - TỰ NHIÊN - LINH ĐỘNG - SÁNG TẠO.

 VỪA PHẢI

 Không thái quá , không quá độ thì gọi là vừa phải. Mọi sự thái quá đều có hại.

   Ví dụ: Trong giai đoạn tụ khí tại Đan Điền, không nên ráng nín hơi lâu quá, vì việc này có thể gây tổn hại cho cơ thể , đôi khi còn có thể nguy hiểm đến  tính mạng.

Trong lúc hít hơi vào không nên phình bụng quá to và cố sức hít cho thật đầy hơi , vì chỉ làm cho tức bụng hoặc có cảm giác không đủ sức để thở, không có lợi gì cả.

Ham thở quá nhiều đường Dương trong khi không có bệnh gì cả, tức là không phải để dùng chữa bệnh, sẽ đưa đến những hậu quả tai hại như nóng mắt, nổi hạch, nhức răng, nhức đầu. Chúng tôi muốn nói trong trường hợp bình thường, không đau ốm gì mà tự nhiên ham thở nhiều đường Dương, mà không phối hợp thở theo đường Âm để quân bình. Điều này sẽ không lợi cho sức khoẻ. Đây cũng là lý do tại sao nhiều người sợ tập Khí công hay nội công hoặc Yoga rồi sẽ bị tẩu hỏa nhập ma. Sự việc vừa trình bày rất là dễ hiểu.

 2/. THOẢI MÁI 

Không gò bó, không khó chịu, không có vấn đề gì thì gọi là thoải mái Mọi sự khó chịu kéo dài được coi như dấu hiệu của sự áp dụng sai phương pháp.

 Ví dụ: Trong lúc tập ngồi ễnh người lên, thân mình gồng cứng ngắc , thắt lưng nịt quá chật làm không thoải mái. Tập sai sẽ làm kết quả sẽ kém đi.

Trong lúc hít hơi vào không dùng Ý dẫn Khí đi mà cố dùng sức để hít hơi vào cho thật đầy bụng, hay đầy ngực thì thật không thoải mái chút nào, và sẽ có cảm giác là mình không đủ hơi để thở.

      Sau khi tập 1 thời gian mà thấy không thoải mái, dễ chịu, trái lại còn khó chịu thì phải biết là mình đã tập sai phương pháp Âm Dương Khí Công ,. và cần nên xem kỹ lại để tập cho đúng.

  3/. TỰ NHIÊN 

KHông trái với quy luật của vũ trụ , của thiên nhiên thì gọi là tự nhiên. Những gì trái với tự nhiên đều đưa đến hậu quả không tốt.

Ví dụ:  Đói ăn, khát uống. Làm việc nhiều ăn nhiều, làm việc ít ăn ít...Do đó như các lực sĩ , các vận động viên thể thao phải thở nhiều hơn các em học sinh , các cô thư ký làm việc tại các văn phòng. Các cụ gì phải thở nhiều hơn thanh niên. Các bệnh nhân không những phải thở nhiều mà còn phải thở đúng cách.

Tóm lại tất cả đều phải phù hợp với sự tự nhiên, nếu không sẽ có vần đề ngay. Ví dụ : đói đừng ăn, khát đừng uống, hay làm việc nhiều ăn ít thử xem sao ?...

  4/. LINH ĐỘNG 

Không quá lệ thuộc vào nguyên tắc,biết tùy cơ ứng biến là sự linh động  Mọi sự cứng ngắc là thiếu Sinh khí và sẽ không cho kết quả tốt.

Ví dụ : Trong phần cách tập có ghi là tập thở phải ngồi xếp bằng , nhưng nếu ta thấy tập nằm hợp với ta hơn và cho kết quả tốt ,thì ta cứ việc nằm tập không sao cả. Vì đó là những cái phụ , và những cái phụ này không làm hại tới cái chính , cho nên ta có thế tùy nghi mà sửa đổi.

Nhưng quan trọng hơn cả là áp dụng tính linh động trong việc trị bệnh.

Ví dụ :  Đang ngồi làm việc ta bỗng nhiên đau bụng. Vì thình lình ta không biết đau bụng do nóng hay lạnh, ta bèn thở đại một đường nào đó, theo kinh nghiệm là ta thường thở đường Dương vì dễ dàng và tiện cho ta hơn. Thở chừng vài lượt, chờ một chút nếu không thấy bớt là ta biết đã thở sai, và lập tức linh động chuyển sang thở đường Âm , và sẽ thấy hiệu quả một cách ngạc nhiên. Đối với các trường hợp khác cũng thế, hễ thấy thở một thời gian không bớt là phải biết linh động chuyển sang thở đường khác đối lập với đường đang thở.

Đến đây chắc là nhiều quý vị sẽ thắc mắc là nếu thở như thế mà không hết thì sao ? Xin thưa không có con đường thứ ba, và theo Đông Y thì dù cho vạn bệnh cũng không ra ngoài Âm Dương, và nếu đã thở cả hai đường mà vẫn không có kết quả , thì hoặc là thở sai hoặc là chưa thở đủ số lượt cần thiết .

Ví dụ : đáng lẽ phải thở nhiều lần trong ngày mới đủ sức cho kết quả , ta chỉ thở có 1 lần cho nên không đạt kết quả, mà có khi vừa thở lại vừa lo nghĩ đâu đâu ). Hoặc là tình trạng bệnh nặng vượt ngoài khả năng của phương pháp  Âm Dương Khí Công, cần phải phối hợp với các môn khác mới đủ sức . Ví dụ : cần phải phối hợp với việc sửa đổi cách ăn uống , vần động , châm cứu , bấm huyệt...Nếu vẫn không có kết quả thì có nghĩa là loại bệnh đó không phù hợp với cách chữa bệnh bằng Khí Công, mà phù hợp với cách trị khác. Ví dụ : uống thuốc , châm cứu , giải phẫu .

Vả chăng ta nên nhớ Âm Dương Khí Công là phương pháp Dưỡng Sinh không phải là phương pháp chủ yếu trị bệnh. Nếu nó có trị được một số bệnh , chẳng qua là do người tập biết cách quân bình Âm Dương đó thôi. Tuy nhiên , nó vẫn có giới hạn của nó, không phải bệnh nào cũng có thể trị được bằng phép thở. Bạn đọc cần lưu ý điều này để tránh khỏi thất vọng.

5/.SÁNG TẠO 

Nghĩ ra những điều mới lạ, rối biết thêm bớt, chế biến, sửa đổi, cải thiện là Sáng tạo. Đôi khi đó là những điều vượt ra ngoài khuôn khổ, hệ thống giáo điều. Sáng tạo là mở nẻo tương lai , là phong phú hóa cuộc đời. Sáng tạo cần cho ta như ánh sáng cần cho hoa.

Ví dụ:  Sau khi tập, ta có thể thêm phần chà xát khắp đầu mặt , mình mẩy  tay chân, rồi sau đó uống 1 ly nước lọc để thấy hơi mát chạy ra tận các đầu ngón tay, ngón chân. 
 Ngoài việc dùng Âm Dương Khí Công để phòng bệnh , trị bệnh và phục hời sức khoẻ , ta còn có thể áp dụng nó trong lãnh vực thể thao, võ thuật, giải phẫu, kế toán, học hành thi cử, chơi cờ, thai giáo..vv...

Tóm lại tùy ở óc tưởng tượng và sáng kiến của ta mà ta có thể tìm thấy lợi ích của phương pháp nhiều hay ít, phiến diện hay đa diện ( cũng đồng thời là thịt bò mà có kẻ chỉ biết xào lăn, người thì làm ra 5-7 món...biết nói sao?).

Như thế, Âm Dương Khí Công là một phương pháp mở, giúp cho người tập không chỉ bằng các kỹ thuật mà còn giúp cho họ có được tinh thần cở mở, trí óc minh mẫn và tự do trong việc tập luyện theo đúng với tính chất và thể trạng của mình.

 GSTSKH. Bùi Quốc Châu

 (Nguồn dienchan.com)